Dịch thơ cổ: Nguyễn Phi Khanh 11

Bài 33

喜学士陳若虚自乂安至

桃花浪泛暖青春
湖海風流却羨陳
老我一官閑草詔
壯君萬里遠辭親
暮雲自豁相思地
夜月欣逢久別人
憂國正須吾輩事
憑渠為說乂安民
               阮飛卿

Phiên âm

Hỉ học sĩ Trần Nhược Hư tự Nghệ An chí

Đào hoa lãng phiếm noãn thanh xuân
Hồ hải phong lưu khước tiễn Trần
Lão ngã nhất quan nhàn thảo chiếu
Tráng quân vạn lý viễn từ thân
Mộ vân tự khoát tương tư địa
Dạ nguyệt hân phùng  cửu biệt nhân
Ưu quốc chính tu ngô bối sự
Bằng cừ vị thuyết Nghệ An dân.
                           Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Mừng học sĩ Trần Nhược Hư  (1) từ Nghệ An đến

Trên sông hoa đào (2) ấm áp 
                      khách xuân xanh thả thuyền
Người hồ hải phong lưu ta hâm mộ họ Trần (3)
Già đời ta là một chức quan nhàn ngồi thảo chiếu
Mạnh thay anh đi xa muôn dặm từ biệt song thân
Mây chiều  (4) tự mở rộng đó là nơi cùng mong nhớ
Trăng đêm nay như hân hoan đây 
                                           là người cách biệt đã lâu
Lo việc nước chính là phận sự của bọn chúng ta
Nhờ ai nhắn nhủ điều đó với dân Nghệ An.

Ghi chú:

  1. Sóng hoa đào (đào hoa lãng): Theo sách Tam Tần  ký, tại bến Long Môn ở sông Hoàng hà, khi có sóng hoa đào thì có bầy cá chép nhảy cao và con nào vượt được Long Môn thì hóa rồng. Đời sau này dùng điển này chỉ việc sĩ tử đi thi.
  2. Họ Trần: tức Trần Đăng sống vào thời Đông Hán, nổi danh là một kẻ phong lưu. Ở đây tác giả ví Nhược Hư như Trần Đăng.
  3. Mây chiều (mộ vân): Thơ Đỗ Phủ nhớ Lý Bạch có câu: “ Vị bắc xuân thiên thụ / Giang Đông nhật mộ vân” (Cây xuân miền Vị Bắc / Mây chiều đất Giang Đông). Chữ “mộ vân” được đời sau đưa vào thơ để nói nỗi nhớ nhung của bạn bè khi xa cách nhau.

Dịch thơ:
1.
Sóng đào ấm dịu thả thuyền xuân
Hồ hải phong lưu nhật họ Trần
Già tớ một quan nhàn thảo chiếu
Mạnh anh muôn dặm vội từ thân
Mây chiều lởn vởn tình thân hữu
Trăng tối chia vui gặp cố nhân
Lo nước bọn ta cùng phận sự
Nhờ ai nhắn nhủ Nghệ An dân.
                     Đào Phương Bình dịch

2.
Hoa đào sóng ấm thả thuyền xuân
Hồ hải phong lưu nể họ Trần
Già lão một quan nhàn thảo chiếu
Mạnh anh muôn dặm biệt song thân
Mây chiều nhẹ nhõm miền mong nhớ
Trăng tối vui mừng gặp cố nhân
Lo nước ta cùng chung phận sự
Nhờ ai nói giúp Nghệ An dân.
                        Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 34

送太中大夫
黎庸齋北行

黎家人物越邦香
公也蓝青出異常
一郡生靈惟借冦
九重使者重煩張
匼中秋水清長路
馬上春風聴異鄊
早向南臺專對了
經歸夔禹佐吾皇
               阮飛卿

Phiên âm
Tống thái trung đại phu
Lê Dung Trai  Bắc hành

Lê gia nhân vật Việt bang hương
Công dã lam thanh xuất dị thường
Nhất quận sinh linh duy ta Khấu
Cửu trùng sứ giả trọng phiền Trương
Hạp trung thu thủy thanh trường lộ
Mã thượng xuân phong thính dị hương
Tảo hướng nam đài chuyên đối liễu
Kinh qui Quỳ Vũ tá ngô hoàng.
                          Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Tiễn quan Thái trung đại phu
Lê Dung Trai (1) đi sứ phương Bắc

Người họ lê là hương thơm nước Việt
Ông là người vượt lên khác thường
                                       trong đám lam thanh (2)
Dân trong một quận chỉ xin cho mượn 
                                               họ Khấu (3) ở lại
Nhưng sứ giả của triều Đình lại 
                              phải phiền đến họ Trương (4)
Nước mùa thu trong hộp (5) quét sạch 
                                                   bụi đường trường
Gió xuân trên mình ngựa mắc sức 
                                           rong ruổi trên đất khách
Hãy sớm đến Nam Đài (6)để làm việc  
                                              chuyên đối cho chu tất
Khi trở về đem tài năng của Qùi Vũ (7) phò tá vua ta.

Ghi chú

  1. Lê Dung Trai: chưa rõ là ai
  2. Đám lam thanh : trong Khuyến học của Tuân Tử có câu : « Thanh thủ chi ư lam nhi thanh ư lam » (Mầu xanh là lấy từ mầu lam ra nhưng lại xanh hơn mầu lam). Người đầu sau lấy câu này để ngụ ý «Học trò do thày đào tạo nên những vẫn có thể giỏi hơn thày».
  3. Mượn họ Khấu (tá khấu) : Đây chỉ Khấu Tuân, người đời Đông Hán, theo Hán Thư, Khấu Tuân từng làm quan ở quận Dĩnh Xuyên. Khi Khấu Tuân được vua Hán Quang Vũ thăng chức và triệu về kinh đô thì dân chúng và nha lại quận Dĩnh Xuyên làm tờ sớ tâu vua xin cho mượn ông Khấu ở lại địa phương mình một năm nữa.
  4. Họ Trương : Đây chỉ Trương Khiên, người đời Hán, nhiều lần được vua Hán cử đi sứ ở các nước Tây vực và đều hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Nguyễn Phi Khanh lấy 2 tích này để nói Lê Dung Trai vừa là một ông quan được lòng dân lại vừa có tín nhiệm với nhà vua.
  5. Nước mùa thu trong hộp : Chưa rõ lai lịch điển tích này.
  6. Nam Đài : Chỉ nơi đóng đô của nhà Minh.
  7. Quỳ,Vũ : Hai bề tôi giỏi của vua Thuấn.

Dịch thơ :
1.
Nước Việt dòng Lê sực nức hương
Lam thanh xuất hiện đấng phi thường
Sinh linh khắp quân lưu ông Khấu
Sứ giả nhà vua ủy họ Trương
Trong hộp nước thu trừ dặm thẳng
Gió xuân mình ngựa thổi tha hương
Nam Đài sớm trổ tài chuyên đối
Quỳ Vũ khi về giúp thánh vương.
                    Đào Phương Bình dịch

2.
Họ Lê nước Việt thơm hương
Lam thanh một đấng phi thường xưa nay
Dân yêu họ Khấu xin vay
Vua tin sứ giả sánh tày họ Trương
Nước thu rửa sạch bụi đường
Gió xuân rong ruổi yên cương xứ người
Nam Đài chuyên đối xong xuôi
Trở về Quỳ Vũ đem tài giúp vua.
                     Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 35

奉赓冰壺相公
寄贈杜中高韻

城中幾度鬬炎涼
漫送悠悠歲月長
散質豈堪便世用
嬌心羞把妒時粧
寒松晚菊淵明徑
獨樹孤村子美堂
贤相儻憐門下士
肯容群作白頭郎
               阮飛卿

Phiên âm

Phụng canh Băng Hồ tướng công
ký tặng Đỗ Trung Cao vận

Thành trung kỷ độ đấu viêm lương
Mạn tống du du tuế nguyệt trường
Tán chất khởi kham tiện thế dụng
Kiều tâm tu bả đố thời trang
Hàn tùng vãn cúc Uyên Minh kính
Độc thụ cô thôn Tử Mỹ đường
Hiền tướng thảng lân môn hạ sĩ
Khẳng dung độc tác bạch đầu lang.
                            Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Phụng họa bài thơ của tướng công
Băng Hồ gửi tặng Đỗ Trung Cao (1)

Mấy độ nơi kinh kỳ ganh đua thói đời ấm lạnh
Hững hờ đưa qua năm dài tháng rộng
Tính chất nhàn tản làm sao nhanh nhẩu 
                                        hầu hạ thế gian được
E lệ thẹn thùng không dám điểm trang lộng lẫy
Tùng già cúc muộn vườn cũ Uyên Minh (2)
Xóm nhỏ cây đơn căn nhà Tử Mỹ (3)
Bậc hiền tướng có lòng thương yêu kẻ sĩ dưới trướng
Thì xin cứ để cho làm quan lang bạc đầu.(4)%

Ghi chú :

1.Đỗ Trung Cao : chưa rõ là ai
2.Uyên Minh : tức Đào Tiềm, nhà thơ lớn đời Tấn, tác giả bài từ nổi tiếng «Quy khứ lai»
3.Tử Mỹ : tức Đỗ Phủ, nhà thơ lớn đời Đường
4. Lang : một chức quan nhỏ. Kẻ sĩ xưa ai có tài mà không được trọng dụng, cứ làm quan lang đến già, người ta gọi là quan lang bạc đầu.

Dịch thơ :
1.
Nóng lạnh ganh đua thói thị thành
Tháng năm dằng dặc tiến cho nhanh
Chất nhàn phá vỡ lòng khiên lụy
Nết đẹp màng chi bả lợi danh
Xóm lẻ cây đơn nhà Tử Mỹ
Cúc già thông rét luống Uyên Minh
Ví chăng hiền tướng thương môn hạ
Xin để quan Lang tóc trắng tinh.
                     Đào Phương Bình dịch

2.
Thị thành ấm lạnh ganh đua
Tháng năm dằng dặc thoi đưa hững hờ
Thói nhàn khó được đời ưa
Thẹn thùng e lệ điểm tô chi mình
Thông già cúc muộn Uyên Minh
Cây đơn xóm lẻ cũng đành như ai
Bề trên dẫu có thương tài
Quan Lang làm đến tóc phai trắng đầu.
                      Đỗ Đình Tuân dịch

8/4/2012
Đỗ Đình Tuân




Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét